MỤC LỤC [Ẩn]
Chữ Hán với nhiều đường nét gây ra trở ngại cho việc ghi nhớ. Vì vậy, người ta đã nghĩ ra nhiều cách để nhớ Hán tự. Ở Việt Nam, một số sách chiết tự chữ Hán ra đời mà ở đó tác giả tự bịa ra cách chiết tự. Cách làm này rất tai hại, nó gây hiểu lầm về nghĩa gốc, nghĩa phái sinh và xa rời nguồn gốc hình thành phát triển văn tự. Hay như người ta sáng tạo ra cách đọc nôm na để dễ dàng ghi nhớ cách viết chữ Hán. Ví dụ như chữ 德 Đức ghi nhớ bằng cách đọc: “Chim chích mà đậu cành tre, thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm”. Từ cách ghi nhớ này, nhiều người bị ngộ nhận rằng chữ 德 Đức phải có chữ nhất (nét ngang) thì mới là đúng, còn chữ 德 Đức không có nét ngang là viết sai. Thực tế thời xưa chữ Đức không có nét ngang mới là tiêu chuẩn và được sử dụng phố biến hơn. Ở bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu vấn đề trên thông qua việc dõi theo lịch sử hình thành và phát triển của văn tự nhé!
Sách Tế Thuyết Hán Tự - Khởi nguyên và diễn biến của 1000 năm Hán tự có viết về chữ Đức như sau:
“Chữ Đức là chữ hội ý. Trong giáp cốt văn thì bộ phận bên trái là bộ xích 彳. Trong văn tự cổ thì nó là phù hiệu để biểu thị hành động. Bộ phận bên phải là 1 con mắt. Phía trên con mắt là nét thẳng. Đó là biểu thị ánh mắt hướng thẳng. Do đó ý nghĩa của chữ này là: Hành động phải “chính 正” (thẳng), và rằng “mắt không nhìn chéo”. Đó chính là Đức. Sự hội ý của chữ Đức trong kim văn càng trở lên rõ ràng hơn bằng cách thêm chữ 心 tâm. Ấy chính là để biểu thị: Mục chính, tâm chính mới gọi là 德 Đức. Đến tiểu triện thì phép cấu tạo chữ vẫn là hội ý. Có điều bộ phận phía trên bên phải biến thành 直 trực. Trực tâm 直心 là 德 Đức. Vì vậy, chữ Đức cổ đại có thể viết thành 悳”.

Xin lưu ý, việc chiết tự nêu trên có thể cũng chỉ mang tính chủ quan, suy đoán dựa trên hình dạng của văn tự. Tuy nhiên, sau khi tra cứu các chữ Đức ở các dạng chữ viết có thể xác quyết bộ phận bên phải của chữ Đức là chữ trực 直 (xem ảnh bên dưới). Cách viết của chữ Đức có liên quan mật thiết đến cách viết chữ 直 trực.
Sách Giáp Cốt Văn Giải – Tìm về nguồn gốc chữ Hán viết về nguồn gốc và phát triển của chữ 直 như sau:
Trong giáp cốt văn trực 直 được cấu tạo từ mục 目 và I (cọc tiêu, cọc ngắm). Điều đó có nghĩa là có thể thông qua cọc ngắm mà mắt người đo được độ nghiêng thẳng của sự vật. Kim văn thời Tây Chu phát triển và phức tạp hóa, ở giữa nét sổ này có thêm 1 nét tròn, về sau nét tròn này được kéo dài thành nét ngang kết hợp với nét sổ tạo thành chữ thập 十, nhấn mạnh ý nghĩa đo lường. Tiểu triện kế thừa kim văn, tuy nhiên 目 mục không còn nằm ngang nữa mà viết dựng lên. Đến chữ Lệ thư thời Đông Hán thì nét cong gập dưới cùng được kéo thẳng ra thành nét ngang. Khi Lệ thư phát triển thành khải thư thì chữ trực được viết như sau: 直.

Đến đây có lẽ mọi người đã hiểu hơn về cấu tạo của chữ Đức. Ở chữ triện, lệ chúng ta có thể thấy một cách trực quan, đầy đủ cấu tạo của chữ Đức gồm: Bộ phận bên trái là bộ xích 彳, bộ phận bên phải là trực 直 và tâm 心. Xét đến cấu tạo chữ trực 直 có 3 bộ phận là: Thập 十, mục 目 và nét ngang 一 dưới cùng. Như vậy, chữ tứ 四 mà chúng ta thấy trong chữ Đức vốn dĩ là mục 目 (mắt). Nét ngang trong chữ Đức mà chúng ta đang đề cập ở phần đầu bài viết chính là nét ngang dưới cùng của chữ trực 直.
Trở lại vấn đề chính, tại sao người ta viết chữ Đức lại không có nét ngang này? Viết chữ Đức mà không có nét ngang là đúng hay sai?
Trước tiên, có thể khẳng định rằng: Chữ Đức 徳 không có nét ngang chắc chắn không sai. Thậm chí, cách viết chữ Đức 徳 không có nét ngang rất phổ biến từ thời Thương, Chu cho đến sau này. Hãy nhìn các chữ Đức qua các thời kỳ ở ảnh minh họa phía dưới để thấy rõ chữ Đức không có nét ngang chiếm tỷ lệ cao.

Chữ Đức cổ đại thời nhà Chu

Chữ Đức thể chữ lệ thư thời Hán

Chữ Đức thể chữ ngụy bi thời kỳ Nam Bắc Triều

Chữ Đức thể chữ khải thư thời Đường
Chữ giáp cốt văn (甲骨文, chữ khắc trên mai rùa và xương thú) là hệ chữ viết cổ nhất của Trung Quốc được phát hiện cho đến nay. Quan sát những chữ Đức sơ khai được khảo cổ, sưu tầm thì nét ngang không xuất hiện. Nét ngang được xuất hiện trong quá trình phát triển văn tự, nhưng dù thế nào đi nữa nét ngang không phải là nét quan trọng, ảnh hưởng đến ngữ nghĩa, nhận diện mặt chữ và không nhất thiết phải có trong chữ Đức.
Sách Can Lộc Tự Thư của Nhan Nguyên Tôn thời Đường phân chia chữ Hán thành 3 thể: Chính, thông, tục. Việc phân chia này dựa trên yêu cầu về tính quy phạm trong văn thư và khoa cử thời Đường. "Chính" là chữ viết quan phương - sử dụng trong hành chính. "Thông" là chữ viết thông dụng thường ngày, được sử dụng phổ biến trong thời gian dài và được xã hội thừa nhận. "Tục" thể là chữ viết đơn giản hóa hoặc biến thể được lưu hành trong dân gian, không phù hợp để sử dụng trong trường hợp chính thống yêu cầu sự quy phạm. Khi đề cập đến chữ Đức sách này có viết rằng: 「徳德:上正,下通。」. Tức là chữ Đức 徳 (không có nét ngang) là chính thể, chữ Đức 德 (có nét ngang) là thông thể. Sách bỏ ngỏ không liệt kê tục thể của chữ Đức. Từ đó có thể thấy chính chữ Đức 徳 không có nét ngang mới là chính thể - kiểu chữ viết chuẩn mực, được sử dụng trong quan phương, hành chính.

Chữ Đức của thư pháp gia tiêu biểu như: Chung Diêu, Vương Hi Chi, Trí Vĩnh, Âu Dương Tuân, Chử Toại Lương, Nhan Chân Khanh, Liễu Công Quyền, Triệu Mạnh Phủ
Ở góc độ thư pháp, trong chữ Đức đã có nhiều nét ngang, việc thêm nét ngang vốn dĩ đã là điều không nhất thiết. Nay viết thêm nét ngang chỉ khiến người viết mất thêm thời gian, hơn nữa không có nét ngang sẽ tránh gây trùng lặp và có tính thẩm mỹ hơn. Ngày nay, dần dà chữ Đức có nét ngang lại trở thành kiểu viết chính thống, được sự dụng thống nhất ở Trung Quốc. Đó là sự lựa chọn của thời đại, không khiên cưỡng được. Sau đây, mời cả nhà cũng xem thêm những tác phẩm thư pháp có chữ Đức.

Chữ Đức của Khải Công

Chữ Đức trên đá ở Đại học Thanh Hoa

Biển ngạch Toàn Tụ Đức 全聚德

Dị thể cửa chữ Đức
Thư Pháp Dụng Phẩm